Củ cải, dù là củ cải trắng hay cà rốt, đều giàu vitamin C, vitamin A và B, ngoài ra còn có một số lượng nhất định các khoáng chất và nguyên tố vi lượng như canxi, phốt pho, sắt, v.v. Các nghiên cứu dinh dưỡng cho thấy củ cải trắng có chứa vitamin C30 mg mỗi 100 gram, vitamin B1 và B2 là 0,4 hog, ngoài ra còn có 49 mg canxi và 0,9 mg sắt. Nếu là củ cải trắng vỏ xanh tim tím, hàm lượng vitamin C trong đó cao hơn một chút, mỗi 100 gram chứa vitamin trên 50 mg, gấp 5 - 10 lần so với các loại trái cây thông thường như táo, lê. Cà rốt chứa nhiều vitamin và khoáng chất, nguyên tố vi lượng hơn củ cải trắng. Trong 100 gram cà rốt, tất cả các chất dinh dưỡng còn lại đều cao hơn một chút so với củ cải trắng, ngoại trừ vitamin C, B1, B2 và các vitamin tan trong nước khác gần bằng với củ cải trắng. Đặc biệt, hàm lượng carotene (provitamin D) đứng đầu trong tất cả các loại rau, với 2,8 mg carotene trên 100 gram cà rốt màu đỏ và 4 mg cà rốt màu vàng. Về khoáng chất và vi lượng, hàm lượng cà rốt cao hơn nhiều so với củ cải trắng, chẳng hạn như hàm lượng sắt, cà rốt có thể đạt 7,6 gram mỗi 100 gram, gấp 8 lần so với củ cải trắng. Hàm lượng canxi cũng vượt qua củ cải trắng gần 1 lần. Bởi vậy có thể thấy được, mùa thu đông ăn nhiều củ cải có thể tránh được thiếu vitamin, còn có thể phòng ngừa nhiều loại bệnh như thiếu máu, chứng khô mắt và chất sừng hóa da quá độ. Các nghiên cứu y học trong những năm gần đây cũng cho thấy một số enzyme trong củ cải có tác dụng phá vỡ nitrosamine, có thể làm giảm tác dụng phụ của nitrosamine đối với hệ tiêu hóa, giảm nguy cơ gây ung thư, có tác dụng tích cực trong phòng chống ung thư dạ dày, thực quản. Interferon, lignin chứa trong cà rốt có tác dụng thực bào tăng cường megaphila trong cơ thể, giúp cải thiện khả năng phòng thủ của cơ thể.
Thành phần dinh dưỡng của cải trắng so với củ cải chưa từng có. Ví dụ như hàm lượng canxi, trong mỗi trăm gram cải trắng có tới 86 mg canxi, vượt qua cà rốt, gấp gần 2 lần củ cải trắng. Đặc biệt đáng nhắc tới chính là, vô luận là cải trắng hay là cải trắng nhỏ, trong đó cellulose đều cực kỳ phong phú. Thường xuyên ăn rau cải trắng, có thể thúc đẩy nhu động ruột, tăng thể tích phân và hàm lượng nước, làm cho bài tiết thuận lợi và lưu loát, là phương pháp điều trị thực phẩm chủ yếu để phòng ngừa táo bón xảy ra vào mùa thu và mùa đông. Thường xuyên ăn cải trắng cũng có tác dụng phòng ngừa ung thư, đặc biệt là phòng ngừa ung thư ruột kết. Mùa đông người ta dễ bị cảm lạnh hoặc cảm mạo, có thể dùng cải trắng thêm hành tây, gừng để chống lạnh và phòng ngừa cảm mạo, cải trắng cũng được đưa vào thực trị truyền thống.
Tóm lại, củ cải, cải trắng mặc dù đều là món ăn đại chúng hóa, nhưng trong cuộc sống thực tế chúng ta thường cần những món ăn đại chúng hóa này để giữ gìn sức khỏe của chúng ta. Mùa thu đông ăn nhiều củ cải, cải trắng một chút, cũng có thể coi là một loại bổ dưỡng, hơn nữa là một loại bổ dưỡng kinh tế thực dụng. Điều cần lưu ý là củ cải và cải trắng tốt nhất nên tách ra khi trộn và hầm, không nên trộn lẫn với nhau, như vậy có thể sinh ra một số ảnh hưởng bất lợi phá hủy thành phần dinh dưỡng lẫn nhau. Ngoài ra, người bị viêm dạ dày mãn tính và bệnh loét dạ dày, rau cải trắng phải ăn ít một chút. Phụ nữ trẻ cũng phải chú ý không được ăn quá nhiều cà rốt, đề phòng ảnh hưởng tiêu cực đến nội tiết. Ánh sáng mờ
Địa chỉ bài viết này: