Bốn phương pháp thường dùng để cầm máu
Áp lực:
Giữ vùng chảy máu bằng tay khi vết thương chảy máu. Chia làm hai loại: một loại là vết thương trực tiếp chèn ép, vô luận dùng băng gạc sạch sẽ hay là các loại vải khác trực tiếp ấn ở khu xuất huyết, đều có thể cầm máu hữu hiệu. Một loại khác là phương pháp cầm máu chỉ áp. Chặn nguồn vận chuyển máu bằng cách ấn ngón tay vào xương gần đầu gần tâm của động mạch chảy máu để đạt được mục đích cầm máu. Cái sau cần được đào tạo để học.
Gói:
Vật liệu được sử dụng để băng bó là gạc, băng, băng đàn hồi hoặc vải cotton sạch hoặc đệm làm từ vải cotton. Nguyên tắc băng bó là đậy trước gói sau, độ mạnh yếu vừa phải. Bìa trước và bọc sau, nghĩa là trước tiên đắp băng lên vết thương (miếng đệm bông đủ lớn và đủ dày), sau đó băng bó lại bằng băng hoặc khăn tam giác. Đây là bởi vì băng gạc bình thường thường dùng dễ dàng ma sát vết thương, tăng thêm khó khăn cho việc xử lý tiếp theo. Cường độ vừa phải là chỉ sau khi băng bó phải cầm máu có hiệu quả, kiểm tra động mạch phía xa vẫn còn đập; Băng bó lỏng, cầm máu không có hiệu quả; Băng bó quá chặt, sẽ làm cho mô từ xa thiếu máu, thiếu oxy hoại tử.
Cắm:
Phương pháp cầm máu tắc nghẽn được sử dụng cho nách, vai, miệng mũi hoặc các vết thương ống mù khác và các khiếm khuyết mô là nhồi nhét chặt lỗ hoặc khiếm khuyết mô chảy máu bằng vải bông cho đến khi nó ngừng chảy máu. Sau khi lấp đầy, bên ngoài vết thương đắp băng rồi băng bó lại, đạt được mục đích cầm máu. Sự nguy hiểm của phương pháp này là việc nhồi bông vải bông với áp lực có thể gây tổn thương mô cục bộ, đồng thời đưa những thứ bẩn bên ngoài vào cơ thể để gây nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng kỵ khí thường gây ra uốn ván hoặc hoại thư khí. Cho nên, trừ phi cần thiết, tận lực không áp dụng phương pháp này.
Gói:
Phương pháp cầm máu cầm máu, thường được sử dụng trong phẫu thuật, để kiểm soát chảy máu tứ chi là có hiệu quả, nhưng có thể gây tổn thương thần kinh và cơ bắp, cũng sẽ gây ra biến chứng toàn thân do thiếu máu tứ chi, không nên sử dụng phương pháp này trong trường hợp bất đắc dĩ.
1. garô không tiếp xúc trực tiếp với da, sử dụng vải bông làm đệm.
2. Dây cầm máu phải lỏng lẻo thích hợp, lấy sau khi cầm máu không còn chảy máu nhiều làm chuẩn, càng lỏng càng tốt.
3. Thả lỏng dây cầm máu đúng giờ, mỗi 40 - 50 phút thả lỏng một lần, khi thả lỏng phải dùng tay cầm máu 2 - 3 phút, sau đó buộc chặt dây cầm máu lần nữa.
4. Đánh dấu rõ ràng, ghi lại thời gian garô và nói với người thay thế. Tổng thời gian cầm máu không được vượt quá 2 giờ - 3 giờ.
Địa chỉ bài viết này: